Tìm Kiếm

27 tháng 10, 2015

Solemnity of All Saints (Nov 1, 2015)


First Reading Rv 7:2-4, 9-14
A reading from the Book of Revelation

I, John, saw another angel come up from the East,
holding the seal of the living God.
He cried out in a loud voice to the four angels
who were given power to damage the land and the sea,
“Do not damage the land or the sea or the trees
until we put the seal on the foreheads of the servants of our God.”
I heard the number of those who had been marked with the seal,

one hundred and forty-four thousand marked
from every tribe of the children of Israel.

After this I had a vision of a great multitude,
which no one could count,
from every nation, race, people, and tongue.
They stood before the throne and before the Lamb,
wearing white robes and holding palm branches in their hands.
They cried out in a loud voice:

“Salvation comes from our God, who is seated on the throne,
and from the Lamb.”

All the angels stood around the throne
and around the elders and the four living creatures.
They prostrated themselves before the throne,
worshiped God, and exclaimed:

“Amen. Blessing and glory, wisdom and thanksgiving,
honor, power, and might
be to our God forever and ever. Amen.”

Then one of the elders spoke up and said to me,
“Who are these wearing white robes, and where did they come from?”
I said to him, “My lord, you are the one who knows.”
He said to me,
“These are the ones who have survived the time of great distress;
they have washed their robes
and made them white in the Blood of the Lamb.”

Bài đọc I: Mk 7:2-4, 9-14
2 Tôi lại thấy một thiên thần khác, mang ấn của Thiên Chúa hằng sống, từ phía mặt trời mọc đi lên. Thiên thần ấy lớn tiếng bảo bốn thiên thần khác, là những vị được quyền phá hại đất liền và biển cả, 3 rằng: "Xin đừng phá hại đất liền, biển cả và cây cối, trước khi chúng tôi đóng ấn trên trán các tôi tớ của Thiên Chúa chúng ta." 4 Rồi tôi nghe nói đến con số những người được đóng ấn: một trăm bốn mươi bốn ngàn người được đóng ấn, thuộc mọi chi tộc con cái Ít-ra-en.9 Sau đó, tôi thấy: kìa một đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhành lá thiên tuế. 10 Họ lớn tiếng tung hô: "Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta."11 Tất cả các thiên thần đều đứng chung quanh ngai, chung quanh các Kỳ Mục và bốn Con Vật. Họ đều sấp mặt xuống, phủ phục trước ngai và thờ lạy Thiên Chúa mà tung hô 12 rằng:
"A-men! Xin kính dâng Thiên Chúa chúng ta lời chúc tụng và vinh quang, sự khôn ngoan và lời tạ ơn, danh dự, uy quyền và sức mạnh, đến muôn thuở muôn đời! A-men!"13 Một trong các Kỳ Mục lên tiếng hỏi tôi: "Những người mặc áo trắng kia là ai vậy? Họ từ đâu đến?" 14 Tôi trả lời: "Thưa Ngài, Ngài biết đó." Vị ấy bảo tôi: "Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên.”

Responsorial Psalm Ps 24:1BC-2, 3-4AB, 5-6
R. Lord, this is the people that longs to see your face.
R. Lạy Chúa, đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm Thánh Nhan Ngài.



The LORD’s are the earth and its fullness; the world and those who dwell in it. For he founded it upon the seas and established it upon the rivers. R.
Chúa làm chủ trái đất cùng muôn vật muôn loài, làm chủ hoàn cầu với toàn thể dân cư. Nền trái đất, Người dựng trên biển cả, đặt vững vàng trên làn nước mênh mông. R.

Who can ascend the mountain of the LORD? or who may stand in his holy place?One whose hands are sinless, whose heart is clean, who desires not what is vain. R.
Ai được lên núi Chúa? Ai được ở trong đền thánh của Người? Đó là kẻ tay sạch lòng thanh, chẳng mê theo ngẫu tượng, không thề dối thề gian. R.

He shall receive a blessing from the LORD, a reward from God his savior. Such is the race that seeks him,
that seeks the face of the God of Jacob. R.
Người đó sẽ được Chúa ban phúc lành, được Thiên Chúa cứu độ thưởng công xứng đáng. Đây chính là dòng dõi những kẻ tìm kiếm Người, tìm Thánh Nhan Thiên Chúa nhà Gia-cóp. R.

Second Reading  1 Jn 3:1-3
A reading from the first Letter of Saint John
Beloved:
See what love the Father has bestowed on us
that we may be called the children of God.
Yet so we are.
The reason the world does not know us
is that it did not know him.
Beloved, we are God’s children now;
what we shall be has not yet been revealed.
We do know that when it is revealed we shall be like him,
for we shall see him as he is.
Everyone who has this hope based on him makes himself pure,
as he is pure.

Bài đọc II: 1 Ga 3:1-3
1 Anh em hãy xem Chúa Cha yêu chúng ta dường nào: Người yêu đến nỗi cho chúng ta được gọi là con Thiên Chúa - mà thực sự chúng ta là con Thiên Chúa.
Sở dĩ thế gian không nhận biết chúng ta, là vì thế gian đã không biết Người.2 Anh em thân mến, hiện giờ chúng ta là con Thiên Chúa; nhưng chúng ta sẽ như thế nào, điều ấy chưa được bày tỏ. Chúng ta biết rằng khi Đức Ki-tô xuất hiện,
chúng ta sẽ nên giống như Người, vì Người thế nào, chúng ta sẽ thấy Người như vậy.3 Phàm ai đặt hy vọng như thế vào Đức Ki-tô thì làm cho mình nên thanh sạch
như Người là Đấng thanh sạch.

Gospel Mt 5:1-12A
When Jesus saw the crowds, he went up the mountain,
and after he had sat down, his disciples came to him.
He began to teach them, saying:

“Blessed are the poor in spirit,
for theirs is the Kingdom of heaven.
Blessed are they who mourn,
for they will be comforted.
Blessed are the meek,
for they will inherit the land.
Blessed are they who hunger and thirst for righteousness,
for they will be satisfied.
Blessed are the merciful,
for they will be shown mercy.
Blessed are the clean of heart,
for they will see God.
Blessed are the peacemakers,
for they will be called children of God.
Blessed are they who are persecuted for the sake of righteousness,
for theirs is the Kingdom of heaven.
Blessed are you when they insult you and persecute you
and utter every kind of evil against you falsely because of me.
Rejoice and be glad,
for your reward will be great in heaven.”

Phúc âm: Mt 5:1-12A
1 Thấy đám đông, Đức Giê-su lên núi. Người ngồi xuống, các môn đệ đến gần bên.2 Người mở miệng dạy họ rằng:3 "Phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó, vì Nước Trời là của họ.4 Phúc thay ai hiền lành, vì họ sẽ được Đất Hứa làm gia nghiệp.5 Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an.6 Phúc thay ai khát khao nên người công chính, vì họ sẽ được Thiên Chúa cho thoả lòng.7 Phúc thay ai xót thương người, vì họ sẽ được Thiên Chúa xót thương.8 Phúc thay ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa.9 Phúc thay ai xây dựng hoà bình, vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa.10 Phúc thay ai bị bách hại vì sống công chính, vì Nước Trời là của họ.11 Phúc thay anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa.12 Anh em hãy vui mừng hớn hở, vì phần thưởng dành cho anh em ở trên trời thật lớn lao.